Cuộc đấu tranh đòi thủ tiêu chế độ


Cùng Top lời giải trả lời chính xác nhất cho câu hỏi trắc nghiệm: “Cuộc đấu tranh đòi thủ tiêu chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi do tổ chức nào lãnh đạo?” kết hợp với những kiến thức mở rộng về phân biệt chủng tộc là tài liệu hay dành cho các bạn học sinh trong quá trình luyện tập môn Lịch sử 9.
Bạn đang xem: Cuộc đấu tranh đòi thủ tiêu chế độ
Trắc nghiệm: Cuộc đấu tranh đòi thủ tiêu chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi do tổ chức nào lãnh đạo?
A. Đại hội dân tộc Phi
B. Liên hợp quốc
C. Tổ chức thống nhất châu Phi.
D. PLO
Trả lời
Đáp án đúng: A. Đại hội dân tộc Phi
Cuộc đấu tranh đòi thủ tiêu chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi do đại hội dân tộc Phi lãnh đạo.
Cùng Top lời giải hoàn thiện hơn hành trang tri thức của mình qua bài tìm hiểu về phân biệt chúng tộc dưới đây nhé!
Kiến thức mở rộng về phân biệt chủng tộc
1. Phân biệt chủng tộc là gì?
- Phân biệt chủng tộc là niềm tin rằng các nhóm người sở hữu những đặc điểm hành vi khác nhau tương ứng với ngoại hình và có thể được phân chia dựa trên sự vượt trội của chủng tộc này so với chủng tộc khác. Nó cũng có thể có nghĩa là định kiến, phân biệt đối xử hoặc đối kháng nhắm vào người khác vì họ thuộc chủng tộc hoặc sắc tộc khác. Các biến thể hiện đại của phân biệt chủng tộc thường dựa trên nhận thức xã hội về sự khác biệt sinh học giữa các dân tộc. Những quan điểm này có thể ở dạng hành động xã hội, thực tiễn hoặc tín ngưỡng hoặc hệ thống chính trị trong đó các chủng tộc khác nhau được xếp hạng là vượt trội hoặc kém hơn nhau, dựa trên những đặc điểm, khả năng hoặc phẩm chất được thừa nhận chung.
- Trong điều kiện của hệ thống chính trị (ví dụ, phân biệt chủng tộc) có hỗ trợ sự biểu hiện của định kiến hay ác cảm trong hành động kỳ thị hoặc pháp luật, phân biệt chủng tộc ý thức hệ có thể bao gồm liên quan đến các khía cạnh xã hội như nativism, bài ngoại, phân biệt đối xử, phân chia chủng tộc, thứ bậc xếp hạng, và chủ nghĩa thượng đẳng.
- Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc là một khái niệm tương đối hiện đại, phát sinh trong thời đại châu Âu của chủ nghĩa đế quốc, sự phát triển tiếp theo của chủ nghĩa tư bản và đặc biệt là buôn bán nô lệ Đại Tây Dương, trong đó nó là một động lực chính. Nó cũng là một lực lượng chính đằng sau sự phân biệt chủng tộc, đặc biệt là ở Hoa Kỳ trong thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX và Nam Phi dưới thời apartheid; Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc ở thế kỷ 19 và 20 trong văn hóa phương Tây đặc biệt được ghi chép lại và tạo thành điểm tham chiếu trong các nghiên cứu và diễn ngôn về phân biệt chủng tộc. Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc đã đóng một vai trò trong các cuộc diệt chủng như Holocaust, diệt chủng người Armenia và diệt chủng người Serb và các dự án thuộc địa bao gồm thực dân châu Âu của châu Mỹ, châu Phi và châu Á cũng như sự trục xuất người thiểu số bản địa. Người dân bản địa đã từng là người Haiti và là người thường xuyên phải tuân theo thái độ phân biệt chủng tộc.
Xem thêm: Nêu Vị Trí, Đề Tài, Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Câu Cá Mùa Thu (Thu Điếu)

2. Nguyên nhân dẫn đến phân biệt chủng tộc
- Có lẽ những bước phát triển của công nghệ đã khiến người ta loá mắt, và sự giải thích sai lầm trong quá khứ của thuyết tiến hoá và ngành di truyền học đã gây ra một tâm thức chung rằng những dân tộc nào còn sơ khai về khoa học và công nghệ chính là những dân tộc có gen di truyền kém cỏi hơn về trí tuệ. Nếu chúng ta nhìn lại lịch sử nhân loại ở tầm mức đủ xa và đủ rộng, đến cả trước thời gian xuất hiện chữ viết (cách nay tầm 5000 năm), chắc hẳn chúng ta sẽ có quan niệm khác. Như nhà nghiên cứu nổi tiếng Jared Diamond đã chỉ ra, không hề có bất cứ một bằng chứng nào cho thấy có sự khác biệt về khả năng trí tuệ ở tầm mức sinh học giữa các dân tộc trên thế giới. Nói cách khác, về cơ bản chẳng có dân tộc nào thông minh hơn dân tộc nào. Sự khác biệt về tiến bộ khoa học kỹ thuật không đến từ yếu tố di truyền chủng tộc, mà từ các điều kiện tự nhiên và diễn trình lịch sử, đúng như nhận xét xác đáng của Jared Diamond trong Súng, vi trùng và thép: “nguyên nhân nằm ở những ngẫu nhiên về địa lý và địa sinh học, cụ thể là sự khác biệt giữa hai lục địa (châu Âu và châu Phi) về diện tích, trục chính, chủng loại cây dại và thú hoang ở đó… Diễn trình lịch sử của mỗi dân tộc một khác, đấy là do những khác biệt giữa môi trường sống của các dân tộc, chứ không phải do những khác biệt sinh học giữa bản thân các dân tộc đó.”
3. Những nỗ lực chống phân biệt chủng tộc ở Việt Nam
- Tại Khoản 1 Điều 1 của Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc, năm 1965 của Liên Hợp quốc đã đưa ra một định nghĩa pháp lý toàn diện về phân biệt chủng tộc: “ Trong Công ước này, thuật ngữ “phân biệt chủng tộc” nghĩa là bất kỳ sự phân biệt, xua đuổi, hạn chế hoặc ưu đãi nào dựa trên cơ sở chủng tộc, màu da, dòng dõi, dân tộc hoặc người gốc thiểu số với mục đích hoặc nỗ lực để vô hiệu hóa hay làm giảm giá trị sự thừa nhận, sự hưởng thụ hoặc thực hành, trên một địa vị bình đẳng, các quyền con người và tự do cơ bản trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa hoặc bất kỳ lĩnh vực nào khác”.
- Định nghĩa này được sử dụng như là cơ sở cho nhiều định nghĩa và các văn kiện liên quan đến phân biệt chủng tộc.
- Theo truyền thống, cơ chế bảo vệ quốc tế về quyền con người và các cơ chế pháp lý về chống phân biệt chủng tộc cũng chịu chi phối của quan điểm về bảo đảm sự bảo vệ cho các cá nhân trước sự can thiệp của Nhà nước. Bởi vậy, các chủ thể chính (một cách tích cự hoặc tiêu cực) thường là Nhà nước, trong khi đó sự phân biệt giữa cá nhân hầu như chưa được điều chỉnh. Nhận thức này mới chỉ được thay đổi dẫn tới sự hiểu biết đúng đắn hơn về sự phân biệt đối xử do chủ thể phi nhà nước gây ra.
Xem thêm: Chạy Tiếp Sức Là Gì? Kỹ Thuật Trao Nhận Tín Gậy Trong Chạy Tiếp Sức 4X100M
- Cùng với sự ra đời của các Bộ luật, Nghị định và Thông tư hướng dẫn ban hành, Việt Nam đã dần khẳng định và làm rõ quan điểm chính trị của mình đối với việc chống phân biệt chủng tộc.
- Những năm qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong thực hiện Công ước CERD, đặc biệt là việc đảm bảo quyền của các dân tộc thiểu số như: Xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội… Trong đó, nhấn mạnh đến những thành tựu trong việc đảm bảo quyền cho người dân tộc thiểu số như: hệ thống pháp luật, các quy định đảm bảo quyền con người, các chính sách cụ thể về phát triển kinh tế – xã hội…