thien than ho ve tap 44

PHẬT THUYẾT THẬP THIỆN NGHIỆP ĐẠO KINH

Bạn đang xem: thien than ho ve tap 44

Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không

Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore

Thời gian: năm 2001

Tập 44

Kinh văn: “Ly phẫn nộ tâm, nhi hành thí cố, thường phú tài bảo, vô năng xâm đoạt, tốc tự thành tựu, vô ngại tâm trí, chư căn nghiêm chỉnh hảo, kiến giai kính ái”.

Đây là trình bày xa xôi rời khỏi Sảnh hận mà hành bố thí thì sẽ có được ngược báo thù thắng.

Trong thập thiện, tâm Sảnh hận là khó đoạn nhất. Gặp phải việc ko vừa lòng, bất như ý thì ý nghĩ Sảnh hận tự nhiên liền sinh khởi, rộng lớn nữa sinh vô nằm trong thời gian nhanh. Đây chứng tỏ từ vô thủy kiếp đến ni, tập khí ác của tất cả chúng ta thiệt thâm thúy nặng. Ở vô phiền não thì phiền não này là nghiêm chỉnh trọng nhất. Phật nói với tất cả chúng ta ngược báo của nó ở địa ngục. Tam độc là nhân tố chủ yếu của tía đường ác. Tham dục là cõi ngạ quỷ, Sảnh hận là cõi địa ngục, ngu si là cõi súc sinh. Phật ở vô tất cả kinh luận Đại-Tiểu thừa ko biết đã nói từng nào lần về sự việc này, từng giây từng phút luôn luôn nhắc nhở tất cả chúng ta, nhất định ko được tạo nghiệp nhân tam độc. Tạo nghiệp nhân tam độc là chắc cú đọa tía đường ác.

Phật độ chúng sinh, giúp chúng sinh lìa khổ được vui sướng. Chúng tớ thông thường nói Phật Bồ-tát bảo hộ, Phật Bồ-tát gia trì. Các Ngài dùng phương pháp gì để bảo hộ, để gia trì vậy? Dùng dạy học, từng giây từng phút nhắc nhở tất cả chúng ta. Bản thân thiện tất cả chúng ta ngu si, ko hiểu ngầm ý của Phật, ko thể tiếp nhận lời giáo huấn, gắng sức thực hiện, cho nên vì thế đã học Phật rồi vẫn phải đọa tam đồ. Ngạn ngữ thường nói: “Trước cửa địa ngục tăng đạo nhiều”. Lời nói này là có đạo lý, có nguyên vẹn nhân, quyết ko phải ko có nguyên nhân. Tứ chúng đệ tử ở ngay lập tức vô đời này có cơ hội nghe được Phật pháp, trên đây là nhân duyên hy hữu khó gặp, vô kinh Phật cũng thường nói “thiện căn, phước đức, nhân duyên”, tía cái đầy đủ thì đời này mới rất có thể được độ.

Chúng tớ sở hữu nhân duyên đầy đủ, vấn đề là có thiện căn, phước đức hoặc không? Có thiện căn phước đức, tức là tin tưởng thâm thúy, nguyện thiết, hắn giáo phụng hành, cái này đó là thiện căn, phước đức. Nếu ko tin tưởng, ko có cái nguyện lực này, ko chịu hắn giáo phụng hành, vẫn cứ tùy thuận tập khí phiền não của tớ, thì vô tía điều kiện này, “nhân duyên” khách hàng có tuy nhiên thiện căn, phước đức ko đủ, tức là như trước trên đây lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam đã nói, khách hàng vẫn tùy nghiệp thọ báo như xưa, khách hàng vẫn bị nghiệp lực dẫn dắt, khách hàng ko rời khỏi khỏi luân hồi, ko trốn thoát tam đồ. Tất yếu tía điều kiện phải đồng thời đầy đủ, thì người này vô một đời siêu thoát rồi.

Trước trên đây, rất nhiều năm về trước, Khi tôi còn ở Đài Loan, giáo sư Lam Kiết Phú đến hỏi tôi về điều kiện vãng sinh, tôi bèn dựa bám theo một câu kinh văn vô kinh A Di Đà để trả lời ông. Kinh A Di Đà nói: “Không thể ít thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được sinh nước kia”. Chúng tớ ngày ni thông thường nói thiện căn, phước đức, nhân duyên đều có tuy nhiên ít, đã ít thì ko thể “được sinh nước kia”. Hay nói cách khác, phải nhiều thiện căn, nhiều phước đức, nhiều nhân duyên mới chắc cú sinh Tịnh Độ. Phật ở vô kinh nói rõ ràng vì vậy, nói minh bạch vì vậy, tất cả chúng ta phải biết.

Tâm phẫn nộ phải làm sao hàng phục đây? Đây là tri thức lớn, trên đây là công phu chân thật. Người biết dụng công, người có tính cảnh giác cao, Khi ý niệm Sảnh hận vừa khởi lên liền niệm “Nam tế bào A Di Đà Phật”, dùng một câu Phật hiệu này đè cái ý niệm này xuống, trên đây là người biết niệm Phật. Ý niệm vừa khởi, ý niệm thứ nhất là tâm phẫn nộ thì ý niệm thứ nhì là A Di Đà Phật, từng giây từng phút phải dùng cái công phu này. Sau đó khách hàng mới biết được sự thù thắng của pháp môn niệm Phật. Trong tám vạn tư ngàn pháp môn, thì pháp môn này tiện lợi, rất có thể dùng mọi lúc mọi điểm, rộng lớn nữa dùng vô nằm trong hiệu quả. Cổ đức thường nói: “Không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Niệm đó là ý niệm tham ô Sảnh si, ý niệm tự tư tự lợi, ý niệm tùy thuận tập khí phiền não, những ý niệm này chắc cú sẽ khởi, bởi vô thủy kiếp đến ni huân tập thành. Bạn là phàm phu, đâu có lý nào ko khởi phiền não được? Niệm thứ nhất khởi lên rồi, niệm thứ nhì liền cảnh giác ngay lập tức, một câu Phật hiệu liền đem nó dàn xếp ổn thỏa, liền đè nó xuống rồi. Cái công phu này dùng lâu rồi, thành thật mà nói, nếu như khách hàng thật sự chịu dụng công, thông thường nói tía năm đến năm năm chắc cú thành công. Mấu chốt đó là tính cảnh giác cao, ý niệm vừa khởi thì Phật hiệu lập tức liền đề khởi lên, trên đây là chỗ thù thắng vô tuy vậy của Tịnh Độ. Phàm phu thiệt đáng thương, Khi phiền não khởi lên, ý niệm thứ nhì lại tiếp tục khởi, thế là phiền não niệm niệm tăng trưởng, cứ vì vậy mới khiến mình ở ngay lập tức vô đời này dù cho tới gặp được pháp duyên thù thắng cũng ko thể thành tựu, đạo lý là ở chỗ này. Chúng tớ ngày ni biết sự việc này rồi, hiểu ngầm rõ đạo lý này thì phải nghiêm chỉnh túc cố gắng mà học tập. Niệm Phật như thế nào? Chính là cách niệm này, phải dùng cho tới thuần thục, mọi lúc mọi điểm đều rất có thể đề khởi lên được, vì vậy thì chúng ta hoàn toàn khống chế được phiền não của khách hàng. Thế là cảnh giới này liền chuyển trở lại ngay lập tức, khách hàng tự mình biết rất rõ ràng, rất sáng tỏ, phiền não nhẹ, kiến thức tăng, công phu tiếp tục thấy hiệu quả.

Cho mặc dù là hoằng pháp lợi sinh, việc ích lợi chúng sinh cũng đều phải coi duyên phận. Từ xưa đến ni, cao nhân, đại đức, rất nhiều vị cả đời ko gặp được duyên. Không gặp được duyên thì họ tự tu, họ thành công rồi, tự độ rồi. Khi ko có duyên thì tự độ, Khi có duyên thì giúp đỡ chúng sinh. Duyên tuyệt đối ko được cưỡng ước. Phật dạy tất cả chúng ta cần tùy duyên. Nếu chúng ta cưỡng ước thì khách hàng chắc cú sinh phiền não. Cho nên chư Phật Bồ-tát, tổ sư đại đức thường hoặc dạy bảo bọn chúng ta: “Tùy duyên chứ ko phan duyên”. Tùy duyên thì tâm của khách hàng tịnh tâm, bình đẳng. Phan duyên thì tâm ko tịnh tâm, tâm ko bình đẳng, hoặc nói cách khác, khách hàng sinh phiền não chứ ko sinh kiến thức. Tùy duyên thì sinh kiến thức, ko sinh phiền não. Chúng tớ nhất định phải hiểu ngầm rõ, đấy là sự thật.

Phật pháp ko dễ gì gặp được, vô kệ khai kinh đã nói: “Trăm ngàn muôn kiếp khó gặp được”, trên đây là sự thật, ko phải giả. Nếu như khách hàng thật sự hiểu ngầm rõ thì khách hàng mới biết quý trọng. Quý Khách gặp được Phật pháp, tại sao ko biết quý trọng Phật pháp vậy? Vì chúng ta ko hiểu ngầm rõ, ko biết cái hoặc của nó, ko biết cái đáng quý của nó, ko biết nó khó gặp vì vậy. Cư sĩ Bành Tế Thanh nói rất hay: “Vô lượng kiếp đến ni, một ngày hy hữu khó gặp”. Chúng tớ ngày ni gặp được là vô lượng kiếp hy hữu khó gặp. Đâu có thuận lợi cho tới khách hàng đời đời kiếp kiếp đều gặp được. Những lời này nói có quá mức hay là không vậy? Chúng tớ hãy bình tĩnh trí tuệ, quan liêu sát tỉ mỉ liền biết thôi. Bạn đừng nói toàn trái đất, chỉ nói ngày ni ở Singapore dân sinh rộng lớn tía triệu người, có mấy người gặp được? Trong tía triệu người, có từng nào người gặp được Phật pháp? Ở vô Phật pháp, có từng nào người rất có thể gặp được Phật pháp thuần chánh? Chúng tôi ở điểm trên đây cũng coi như hoằng pháp nhiều năm rồi. Trước trên đây, mỗi năm tôi đến trên đây giảng một tháng, tôi ước tính sơ bộ cũng ko đến tía ngàn người mà thôi. Trong tía ngàn người này, người thật sự rất có thể giác ngộ lại được mấy người? Không thể có 300 người, có thể được 300 người là khá tốt rồi. Cho nên, loại trừ dần dần đến cuối cùng thì ko được mấy người. Như vậy đối với lời của cổ nhân nói tất cả chúng ta mới khẳng định, mảy may ko nghi ngại hoặc. Sau đó thử nghĩ bản thân thiện, tất cả chúng ta may mắn biết bao!

Học Phật, mấu chốt của thành bại là gì? Ngày đầu tiên tôi học Phật, nhờ có đại sư Chương Gia chỉ dạy tôi: “Nhìn thấu, buông xả”. Mấu chốt thành bại của khách hàng là quyết định ở tư chữ này. Bạn ko thể nhìn thấu, ko thể buông xả, thì đời này cùng lắm là kết cái duyên ở vô Phật pháp tuy nhiên thôi. “Kết duyên”, vô lượng kiếp quá khứ đến ni, tất cả chúng ta đã kết duyên ko ít lần rồi, cho nên vì thế mới nói “có thiện căn thâm thúy dày”. Thế Tôn ở vô kinh Vô Lượng Thọ nói cho tới tất cả chúng ta biết về vương vãi tử A-xà, ông vô đời quá khứ đã từng cúng dường 400 ức Phật. “Ức” là con cái sốcủa Ấn Độ, con cái số này chênh lệch rất lớn, chục vạn cũng gọi là ức, trăm vạn cũng gọi là ức, ngàn vạn cũng gọi là ức. Chúng tớ chỉ tính số lượng thấp nhất là chục vạn. Một ức là chục vạn, mà “400 ức” cũng là con cái số tương đối khá lớn rồi. Trong đời quá khứ đã từng gieo trồng thiện căn, tiếp xúc được Phật pháp nhiều lần vì vậy, tuy nhiên cái thiện căn này vô kinh A Di Đà nói là “ít thiện căn”, vẫn ko phải nhiều. Từ đó cho tới thấy, tập khí tất cả chúng ta nghiêm chỉnh trọng nhường nhịn này, tại sao vậy? Chúng tớ coi thấy ở vô kinh, vương vãi tử A-xà nghe Thế Tôn giảng kinh Vô Lượng Thọ, ông vẫn ko có phát tâm ước sinh Tịnh Độ, cái tâm này vẫn ko có phát rời khỏi được. Ông chỉ phát tâm là “chúng con cái sau này làm Phật cũng muốn tương tự như Phật A Di Đà vậy”, ông ko có phát tâm ước sinh. Nếu như phát tâm ước sinh Tịnh Độ, vậy mới gọi là nhiều thiện căn. Cho nên vương vãi tử A-xà-thế vẫn là thuộc về ít thiện căn, ít phước đức. Mặc dù sở hữu nhiều nhân duyên, tuy nhiên ông sở hữu ít thiện căn, ít phước đức nên ko thể thành tựu.

Chúng tớ soi lại bản thân một chút, tất cả chúng ta có phải ít thiện căn, ít phước đức hoặc không? Điều này phải suy xét cho tới thật kỹ. Thật sự thiện căn phước đức ít, có cách gì cứu chữa hoặc không? Có! Bạn chân thực rất có thể nhìn thấu, chân thực rất có thể buông xả, chân thực rất có thể ước học, thì chỉ vô thời gian lận mấy năm, chúng ta có thể đem ít thiện căn của khách hàng biến thành nhiều thiện căn. Đó đó là ngày tối phải tăng cường huân tu Phật pháp.

Tại Singapore, điển hình rõ rệt nhất là ông Trần Quang Biệt, cựu trưởng Cư Sĩ Lâm. Tuy ông học Phật từ nhỏ, hộ trì Phật pháp 50-60 năm, nhân duyên của ông ko ít, tuy nhiên thiện căn, phước đức của ông đều ít. Khi về già nua, thời gian lận tư năm cuối đời, ông bị bệnh. Nằm bên trên giường bệnh, mỗi ngày ông nghe kinh tám giờ, ko gián đoạn ngày nào. Vấn đề này đã bổ túc tăng nhiều thiện căn phước đức của ông. Trong cơn bệnh, ông thật sự buông xả vạn duyên, nhất tâm niệm Phật, cho nên vì thế ông thành công. Ông đã thử nên một tấm gương rất tốt cho tới tất cả chúng ta thấy.

Chúng tớ tránh việc đợi lâm công cộng bị bệnh, nằm ở bên trên giường mới nghe kinh, tuy nhiên phải làm ngay lập tức bây giờ. Ông nằm bên trên giường bệnh đã nghe tư năm là rất có thể biết trước ngày giờ rời khỏi chuồn. Chúng tớ lúc này ko bị bệnh, nhân lúc tuổi còn trẻ hãy buông xả vạn duyên, cũng nghe kinh được mỗi ngày tám giờ, tôi tin tưởng tư năm chúng ta có thể đứng vãng sinh, ko có bị bệnh. Điều rất có thể biến thành ko thể là nguyên vẹn nhân gì vậy? Không chịu làm! Buông xả gì vậy? Buông xả tập khí phiền não, buông xả tự tư tự lợi, buông xả tham ô Sảnh si mạn, buông xả nhân ngã thị phi, buông xả ngũ dục lục trần, dạy khách hàng cần buông xả những thứ này. Chuyên tâm hiểu ngầm kinh, nghe giảng kinh, niệm Phật, người tía năm thành tựu rất nhiều quá nhiều rồi. Các khách hàng hãy coi Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, coi Vãng Sanh Truyện, từng nào người tu hành chỉ tía năm là vãng sinh rồi.

Trước trên đây có rất nhiều người đến hỏi tôi: “Thưa pháp môn sư, có phải họ vãng sinh là vừa ngay lập tức lúc thọ mạng hết rồi phải không?”. Tôi mỉm cười: “Không nhất thiết! Đâu có trùng hợp vì vậy, một người, vài người họa may có. Nhiều người vì vậy đều là tía năm, năm năm niệm Phật liền vãng sinh, ko thể trùng hợp như vậy”. Đó là nguyên vẹn nhân gì vậy? Họ ko có pháp duyên độ chúng sinh thì họ tự mình thành tựu. Công phu đến trình độ này gọi là “sanh tử tự tại”, họ rất có thể chuồn bất cứ lúc nào, muốn chuồn là chuồn, họ cảm thấy cái trần gian này ko có pháp duyên, ko có duyên độ chúng sinh, ở lại cái trần gian này ko có ý nghĩa gì, vậy là chuồn ngay lập tức. Trước tiên đến trái đất Tây Phương Cực Lạc để gặp Phật A Di Đà. Sau Khi gặp Phật A Di Đà rồi, ở điểm nào có duyên thì họ đến điểm đó để độ chúng sinh, ko giới hạn ở cái địa ước này. Đến trái đất Tây Phương Cực Lạc thì không khí hoạt động của tất cả chúng ta là tận hư vô khắp pháp giới, không khí hoạt động vô cùng lớn. Duyên ở điểm này ko chín muồi, tuy nhiên trái đất phương khác duyên chín muồi rồi thì rất có thể chuồn đến trái đất đó, ko bị trói buộc ở cái trần gian này. Đạo lý này tất cả chúng ta nhất định phải hiểu ngầm.

“Tốc tự thành tựu”. Quý Khách “không Sảnh hận” thì khách hàng thành tựu rất thời gian nhanh.

“Vô ngại tâm trí”. “Vô ngại” tức là ko có chướng ngại. Câu này ý trình bày kiến thức của khách hàng ko có chướng ngại.

“Chư căn nghiêm chỉnh hảo”, các căn tướng hảo nghiêm túc. “Kiến giai kính ái”. Làm thế nào nhằm thành tựu những điều này vậy? Không có Sảnh hận. Khi chúng ta Sảnh hận thì vẻ mặt rất xấu xí, cho nên vì thế tướng mạo ko đẹp, mọi người nhìn thấy khách hàng đều ko hoan hỷ. Lìa Sảnh hận thì tướng mạo liền đẹp, cơ thể cũng tốt, mỗi người nhìn thấy khách hàng đều sinh tâm hoan hỷ, cũng chính vì khách hàng rất có thể hoan hỷ đối xử người khác thì người khác cũng hoan hỷ đối với khách hàng. Sân hận, cái hình hình họa này ai cũng chẳng muốn nhìn. Chúng tớ sinh sống vô xã hội này, có duyên hay là không có duyên với đại chúng, trên đây là một nhân tố rất quan liêu trọng.

Kinh văn: “Ly tà đảo tâm, nhi hành thí cố, thường phú tài bảo, vô năng xâm đoạt, hằng sinh chánh kiến, kính tín chi gia, kiến Phật văn pháp, cúng dường chúng tăng, thường bất vong thất, đại Bồ-đề tâm. Thị vi đại sĩ, tu Bồ-tát đạo thời, hành thập thiện nghiệp, dĩ thí nghiêm túc, sở hộ, đại lợi như thị”.

Đoạn kinh văn nhỏ này trình bày ko ngu si tuy nhiên hành bố thí thì ích lợi có được là đến “thường bất vong thất, đại Bồ-đề tâm”.

Từ câu “thị vi đại sĩ” trở xuống đến “đại lợi như thị” là tổng kết của đoạn này, đó là tổng kết dùng thập thiện nghiệp tu bố thí.

“Tà đảo”, tà là tà kiến, đảo là điên đảo, tà kiến điên đảo đó là ngu si.

“Ly tà đảo tâm, nhi hành thí cố”. Đây là tất cả chúng ta thông thường nói ko ngu si hành bố thí.

Xem thêm: bai van ta ba lop 7

“Thường phú tài bảo, vô năng xâm đoạt”. Đây là nói ích lợi tổng quát.

Đoạn thứ nhất là nói rõ ràng sáu Ba-la-mật, từ trì giới trở xuống đều là nói sơ lược. Trong nói sơ lược, tất cả chúng ta nhất định phải dùng cái ví dụ phía trước này. Cái ví dụ phía trước này tiếp tục người sử dụng liên tục, xuyên suốt toàn kinh. Ví dụ hiểu ngầm đến trì giới, khách hàng phải nghĩ đến giữ giới ko sát sinh được ích lợi gì, giữ giới ko trộm cắp được ích lợi gì, trì giới ko tà dâm được ích lợi gì, liên tục đến ko ngu si, mỗi điều đều vì vậy. Phía dưới thì Phật ko nói nữa, tất cả chúng ta tự mình phải hiểu ngầm, trên đây gọi là nêu một cái rồi suy rời khỏi những cái còn lại. Thậm chí đến cuối cùng của kinh văn này là “phương tiện”, phía sau lục độ, tứ vô lượng tâm, tứ nhiếp pháp, 37 phẩm trợ đạo, chỉ quán, phương tiện, mỗi một điều đều là vì vậy. Ví dụ nói tu chỉ quán, bất sát sinh tu chỉ nghiêm túc cố, bất thâu đạo chỉ nghiêm túc cố, bất tà dâm chỉ nghiêm túc cố, ở vô mỗi câu đều có chục điều. Chúng tớ tự mình phải nghĩ rời khỏi cho tới được. Đây là Thế Tôn ở chỗ này nêu ví dụ để nói. Thực tiễn vào vô cuộc sống tất cả chúng ta từng li từng tí, ko có pháp nào là ko đầy đủ chục pháp, bất kỳ pháp nào cũng đầy đủ chục pháp, cái này mới là chỉ ư chí thiện.

Bộ kinh này mới mở đầu dạy bọn chúng ta: “Ngày tối thường niệm thiện pháp, trí tuệ thiện pháp, quan liêu sát thiện pháp”. Trong nhà Phật nói khái quát tám vạn tư ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn, mỗi một pháp đều đầy đủ chục pháp, vậy mới thật sự thực tiễn đến thường niệm thiện pháp, trí tuệ thiện pháp, quan liêu sát thiện pháp, ko cho tới phép mảy may bất thiện xen tạp. Chúng tớ niệm Phật, niệm một câu Phật hiệu này, tất cả chúng ta lúc này nắm chắc rồi, ko sát sinh chấp trì danh hiệu, ko trộm cắp chấp trì danh hiệu, ko tà dâm chấp trì danh hiệu, cho tới đến ko tham ô, ko Sảnh, ko si chấp trì danh hiệu, thì sinh về trái đất Tây Phương Cực Lạc đương nhiên là người thượng thiện, vô từng tiếng Phật hiệu đều đầy đủ thập thiện nghiệp. Chúng tớ phải nắm chắc cái đạo lý này.

Biệt báo của ko ngu si hành bố thí chỉ nói một điều ngược báo này là “hằng sinh chánh kiến”. “Hằng” là vĩnh hằng, “Chánh” là chánh tri chánh kiến. Hay nói cách khác, đó là tông môn đại sư lục tổ Huệ Năng nói là “thường sinh trí tuệ”. Ngài gặp Ngũ Tổ nói: “Trong tâm đệ tử thường sinh trí tuệ”. Chúng tớ biết Ngài thường sinh kiến thức là vì Ngài ko ngu si hành bố thí nên được ngược báo này. Chúng tớ bình thường có tu học vì vậy hoặc không?

“Kính tín chi gia”. Không những bản thân thiện sinh chánh tri chánh kiến, ở vô câu “hằng sinh chánh kiến, kính tín chi gia”, họ thọ sinh ko phải thọ sinh vô nhà người bình thường, nhất định là sinh vào vô gia đình Phật giáo có chánh tín. Tại sao vậy? Vì bản thân thiện họ có chánh tri chánh kiến. Nếu bản thân thiện ko đầy đủ chánh tri chánh kiến thì sẽ ko sinh vào nhà chánh tri chánh kiến, trên đây là cảm ứng. Khổng Phu Tử ở vô “Chu Dịch Hệ Từ Truyện” đã từng nói: “Vật dĩ loại tụ, nhân dĩ quần phân”, chánh kiến ưa thích chánh kiến, tà kiến ưa thích tà kiến. Cho nên cổ nhân đã từng dạy người, ham muốn quan liêu sát người này, coi người này là người chánh loài kiến hoặc là người tà kiến, từ chỗ nào tuy nhiên coi vậy? Xem khách hàng bè của họ, coi họ mối quan hệ khách hàng bè với những hạng người nào. Bạn bè mà họ mối quan hệ đều là chánh tri chánh kiến, thì người này chắc cú là chánh tri chánh kiến; những người mà họ uỷ thác du này là tà tri tà kiến, thì họ cũng khó tránh ngoài tri kiến bất chánh, trên đây là đạo lý nhất định. Cho nên coi khách hàng thì rất có thể biết người là vậy.

Đã là chánh tri chánh kiến thì nhất định “thấy Phật, nghe pháp, cúng dường chúng tăng”, trên đây là gần gũi tam bảo. Quí vị nhất định phải biết, ở vô pháp thế xuất thế, gần gũi tam bảo là người đại phước đức, cũng là người đại kiến thức. Nhưng ngày ni tam bảo ở trần gian đang được suy vi rồi, suy vi là vì chỉ có tam bảo hình thức, ko có tam bảo thực chất. Quí vị phải biết rằng, tam bảo thực chất mới hữu hiệu, tất cả chúng ta mới rất có thể thật sự được phước tuệ.

Tam bảo thực chất, vô Đàn Kinh nói rất hoặc, Lục Tổ nói: “Phật là giác vậy, pháp là chánh vậy, tăng là tịnh vậy”, cho nên Ngài dạy người quy hắn giác, quy hắn chánh, quy hắn tịnh. Giác, Chánh, Tịnh là tam bảo chân thật. Phật-Pháp-Tăng đó là Giác-Chánh-Tịnh. Thế tuy nhiên, người lúc này nhận thức Phật-Pháp-Tăng, ko biết nội hàm của Phật-Pháp-Tăng là Giác-Chánh-Tịnh. Nhắc đến Phật liền nghĩ đến tượng Phật, nhắc đến pháp liền nghĩ đến kinh điển, nhắc đến tăng liền nghĩ đến người xuất gia, nghĩ vậy sai rồi! Thế là ko có được ích lợi chân thật của Phật pháp. Trụ trì tam bảo đối với sự hoằng truyền, tu học Phật pháp là vô nằm trong quan liêu trọng, ko thể thiếu. Bạn có thực chất tuy nhiên ko có hình tượng thì thực chất cũng tan vỡ. Phật Bồ-tát chỉ dạy tất cả chúng ta, nhìn thấy tượng Phật phải nghĩ đến giác ngộ, “giác chứ ko mê”, ý nghĩa chân thực của cúng dường tượng Phật là ở chỗ này. Nhìn thấy kinh điển, ko chỉ là kinh điển, tuy nhiên chỉ nên nhìn thấy quyển sách, nhìn thấy văn tự thì tức khắc liền rất có thể nghĩ đến “chánh chứ ko tà”. Đây là thật sự quy hắn pháp, thật sự khách hàng thấy Phật, thấy pháp rồi. Nhìn thấy người xuất gia liền nghĩ đến sáu căn tịnh tâm, ko nhiễm mảy bụi, trên đây là khách hàng thật sự kính tăng. Thấy Phật, nghe pháp, kính tăng là phải giảng vì vậy.

Vì vậy, hình tượng tam bảo này từng giây từng phút đang được nhắc nhở tất cả chúng ta, ko có hình tượng này tất cả chúng ta vô nằm trong dễ quên. Chúng tớ kể từ vô lượng kiếp đến ni tùy thuận tập khí phiền não, tự nhiên liền bị phiền não kéo chuồn. Cho nên, tất cả chúng ta cần hiểu tại sao tất cả chúng ta phải cúng dường tam bảo, mục đích là từng giây từng phút nhắc nhở mình. Đây đó là ân huệ lớn nhất mà tam bảo bên trên hình tượng đã cho tới tất cả chúng ta, nếu ko thì lấy gì để nhắc nhở bọn chúng ta? “Giác chứ ko mê”, cách giác như thế nào? “Chánh chứ ko tà”, cách chánh như thế nào? “Tịnh chứ ko nhiễm”, cách tịnh như thế nào? Những đạo lý lớn này đều ở vô kinh điển. Cho nên Phật giáo giới tất cả chúng ta là cần “thọ trì hiểu ngầm tụng, vì người diễn nói”. Đọc tụng là then chốt, liên tiếp hiểu ngầm tụng, liên tiếp vì người diễn nói (diễn là làm được).

Thập thiện nghiệp đạo là môn học cơ bản của nhà Phật, bất kể khách hàng tu tông phái nào, bất kể khách hàng tu pháp môn nào, Đại thừa cũng tốt, Tiểu thừa cũng tốt, Hiển giáo, Mật giáo, Tông môn, Giáo hạ, trên đây vẫn là môn học công cộng, thảy đều phải tu. Có học tập môn học công cộng này thì người này mới là đệ tử Phật, người lúc này nói là Phật giáo đồ. Không có cái cơ sở này, đại sư Thiên Thai gọi là: “Danh tự đệ tử”, chính bản thân thiện Ngài nói là “lục tức Phật”, “danh tự tức Phật”. Lục tức dùng vào vô thân thiện tất cả chúng ta, đó đó là “Danh tự Phật giáo đồ”, là hữu danh vô thực. “Làm thật” là thiệt thực hiện vào quán hạnh vị, đó là đệ tử Phật quán hạnh vị. Làm đến thật sự có thành tựu xuất hiện rồi, trên đây đó là đệ tử Phật tương tự vị. Những ai là tương tự vị vậy? A La Hán, Bích Chi Phật, Bồ-tát quyền giáo, Phật tạng giáo, Phật thông giáo là đệ tử Phật tương tự. Đến Khi phá một phẩm vô minh, chứng một phần pháp thân thiện thì khách hàng là đệ tử Phật đích thực.

Đệ tử Phật thật đều bắt rễ từ bên trên thập thiện nghiệp đạo. Chúng tớ vứt bỏ thập thiện thì bên trên đường Bồ-đề một bước cũng ko thể tiến tới được. Đây là lời chân thật, tại sao vậy? Không có thập thiện nghiệp đạo thì khách hàng ko có tiến bộ, bên trên đường Bồ-đề một bước khách hàng cũng ko bước vào được. Thế là tất cả chúng ta mới hiểu ngầm rằng, người học Phật sở hữu biết bao người ở ngoài cửa Phật, ko bước vào ngưỡng cửa. Quý Khách cần tu đầy đủ thập thiện nghiệp đạo mới bước vào ngưỡng cửa, sau đó khách hàng từng bước tiến lên phía trước, vì vậy khách hàng đã bước vào cửa lớn của nhà Phật. Nếu như tất cả chúng ta đem 50 cấp bậc của Bồ-tát để làm ví dụ, thì thập tín vị là cửa lớn. Sơ tín là vào cửa, đến thập tín là ở vô cửa lớn, Bồ-tát Thập Trụ là đã vào cửa thứ nhì, Bồ-tát Thập Hồi Hướng là vào đến cửa thứ tía, Bồ-tát Địa Thượng là vào nhà, đăng đường nhập thất.

Cửa lớn, cửa nhì, cửa tía, rất nhiều đồng tu ko từng nhìn thấy. Nếu như quí vị đến Trung Quốc du lịch, lưu ý thật kỹ, vào thời xưa nhà người giàu có ở Bắc Kinh chi tiết nhà tứ hợp. Trong nhà tứ hợp là có cửa lớn, cửa nhì, ko có cửa tía. Nhưng khách hàng đến cung Ung Hòa mà coi, có cửa lớn, cửa nhì, cửa tía. Cung Ung Hòa là nhà mà trước trên đây hoàng đế Ung Chính Khi làm hoàng tử cư trú. Sau Khi ông làm hoàng đế thì đem nhà ở của tớ quyên cúng để làm chùa Phật, trên đây là chánh tín, quyên cúng là cúng dường tam bảo. Quý Khách thử coi, kiến trúc này ko tương tự như những kiến trúc dân gian lận thông thường khác, Sảnh vườn rất thâm thúy. Nhà tứ hợp có nhất tiến, nhị tiến, tam tiến, tứ tiến. Ở Trung Quốc đại lục, gia đình phú quý đại khái đều có tam, tứ tiến. Thời kỳ kháng chiến tôi có sống tại Hồ Nam một năm, tôi ở tại Hoành Sơn. Căn nhà mà tôi ở đã từng là nhà của một gia đình giàu có. Phòng vô nhà của họ là nhà tứ hợp, tam tiến, ở phía sau là hoa viên, Sảnh vườn rất thâm thúy. mái ấm tương đối giàu có, tuy nhiên vào thời đó đã suy tàn rồi, con cái cháu đời sau nhân khẩu rất ít, người ko nhiều nữa, tộc này suy rồi, tuy nhiên khách hàng nhìn thấy gia đình họ, coi cái kiến trúc này là biết được đó ko phải là một gia đình thông thường.

Tóm lại, bản thân thiện tất cả chúng ta phải hiểu ngầm rằng, tất cả chúng ta hiện tại là đang được ở vô cửa Phật hoặc là ở ngoài cửa? Chúng tớ đã bước vào cửa lớn, còn rất có thể bước vào cửa nhì hoặc không? Chỉ cần bước được vào cửa lớn, thật sự rất có thể phát tâm Bồ-đề, một lòng thường xuyên niệm Phật A Di Đà thì chắc cú được sinh. Thế gian lận này tất cả đều là giả, ko có gì là thật cả, chỉ có niệm Phật vãng sinh là thật. Cái giả thì tất cả chúng ta phải buông xả, phải xả bỏ. Cái thật thì phải nắm giữ thật kỹ, dứt khoát ko được lơi lỏng. Cho nên ko ngu si hành bố thí mới rất có thể sinh vào nhà chánh tín.

Ngày ni Phật giáo tất cả chúng ta như Cư Sĩ Lâm, Tịnh Tông Học Hội, thưa với quí vị trên đây là nhà chánh tín. Chúng tớ hằng ngày ở điểm trên đây nghiên cứu, thảo luận, tu học chánh pháp. Tuy tất cả chúng ta ko sinh trưởng ở vô một gia đình Phật giáo, tuy nhiên ngày ni tất cả chúng ta có cái nhân duyên thù thắng này, tất cả chúng ta cư trú ở vô môi trường này thì đó là sinh vào nhà chánh tín. Ở điểm này, tất cả chúng ta có duyên thấy Phật, nghe pháp, cúng tăng, cái duyên này thù thắng biết bao. “Thấy Phật” là kiến tánh. “Nghe pháp” là rõ lý, chân tướng vũ trụ nhân sinh tất cả chúng ta hiểu ngầm rõ ràng, hiểu ngầm sáng tỏ. “Cúng tăng” là nằm trong sống hòa mục, đối xử bình đẳng, ko chỉ là tất cả chúng ta tuy nhiên toàn bộ chúng ở thường trụ ko phân quốc độ. Chúng tớ ko nói “quốc gia” mà nói “quốc độ”, vì như thế phạm vi của quốc gia thì nhỏ, ko có thoát khỏi trái đất, còn phạm vi của quốc độ thì lớn. Quốc độ là khu vực vực giáo hóa của một vị Phật, một tam thiên đại thiên trái đất, cái này gọi là quốc độ. Trong hư vô bát ngát có vô lượng vô bờ cõi nước chư Phật, ko phân quốc độ, ko phân chủng loại, ko phân tôn giáo, đối xử bình đẳng, công cộng sống hòa mục, trên đây gọi là cúng dường. Ở vô cúng dường mà tu học, tu học tập cái gì? Tu học tập sáu căn tịnh tâm, ko nhiễm một trần. Cúng dường là phước, tịnh tâm bất nhiễm là tuệ, phước tuệ tuy vậy tu.

“Thường bất vong thất, đại Bồ-đề tâm”. Tâm Bồ-đề vô thượng, thông thường hằng ở bên trên tâm. Tâm Bồ-đề vô thượng đều thực tiễn vô cuộc sống. Đoạn nhỏ này là trình bày ko si.

Phía sau là tổng kết dùng thập thiện nghiệp tu bố thí Ba-la-mật.

“Thị vi đại sĩ, tu Bồ-tát đạo, hành thập thiện nghiệp, dĩ thí nghiêm túc, sở hộ đại lợi như thị”. “Như thị” tức là như phần trước đã nói, Thế Tôn ở vô đoạn này nói vô cùng tỉ mỉ, về sau đều là nói sơ lược. Chúng tớ phải nắm chắc nghĩa thú thuyết pháp của Ngài.

Tốt rồi, ngày hôm nay thời gian lận đã hết. A Di Đà Phật.

PHẬT THUYẾT THẬP THIỆN NGHIỆP ĐẠO KINH (tập 44)

Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không

Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore

Thời gian: năm 2001

Cẩn dịch: Viên Đạt cư sĩ, Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền

Xem thêm: truong thpt doan ket hai ba trung